Tổng hợp truyện cổ tích tiếng Anh dễ đọc, dễ hiểu nhất (Phần 2)

Rate this post

Học tiếng Anh thông qua những câu chuyện cổ tích không những giúp các bạn cải thiện vốn từ vựng, các cụm từ, ngữ pháp tiếng Anh chuẩn mà đó còn là thế giới của tưởng tượng phong phú. Vừa đọc truyện, vừa học tiếng Anh lại vừa được thả hồn mình vào những câu chuyện bay bổng của thế giới cổ tích thì còn gì bằng. Tiếp nối phần 1, trong phần 2 về truyện cổ tích tiếng Anh này,  Elight sẽ giới thiệu đến các bạn những truyện cổ tích tiếng Anh nổi tiếng, dễ đọc và dễ hiểu nhất. 

 

4 – Truyện cổ tích tiếng Anh – Jack và hạt đậu thần

 

Bản gốc tiếng Anh

Once upon a time there lived a poor widow and her son Jack. One day, Jack’s mother told him to sell their only cow. Jack went to the market and on the way he met a man who wanted to buy his cow. Jack asked,

– “What will you give me in return for my cow?”

The man answered, “I will give you five magic beans!”

Jack took the magic beans and gave the man the cow. But when he reached home, Jack’s mother was very angry. She said, “You fool! He took away your cow and gave you some beans!” She threw the beans out of the window. Jack was very sad and went to sleep without dinner.

The next day, when Jack woke up in the morning and looked out of the window, he saw that a huge beanstalk had grown from his magic beans! He climbed up the beanstalk and reached a kingdom in the sky. There lived a giant and his wife. Jack went inside the house and found the giant’s wife in the kitchen. Jack said:

– “Could you please give me something to eat? I am so hungry!” The kind wife gave him bread and some milk.”

While he was eating, the giant came home. The giant was very big and looked very fearsome. Jack was terrified and went and hid inside. The giant cried:

– “Fee-fi fo-fum, I smell the blood of an Englishman. Be he alive, or be he dead, I’ll grind his bones to make my bread!”

The wife said, “There is no boy in here!” So, the giant ate his food and then went to his room. He took out his sacks of gold coins, counted them and kept them aside. Then he went to sleep. In the night, Jack crept out of his hiding place, took one sack of gold coins and climbed down the beanstalk.

At home, he gave the coins to his mother. His mother was very happy and they lived well for sometime. Climbed the beanstalk and went to the giant’s house again. Once again, Jack asked the giant’s wife for food, but while he was eating the giant returned. Jack leapt up in fright and went and hid under the bed. The giant cried:

– “Fee-fi fo-fum, I smell the blood of an Englishman. Be he alive, or be he dead, I’ll grind his bones to make my bread!”

The wife said, “There is no boy in here!” The giant ate his food and went to his room. There, he took out a hen. He shouted, “Lay!” and the hen laid a golden egg. When the giant fell asleep, Jack took the hen and climbed down the beanstalk. Jack’s mother was very happy with him.

After some days, Jack once again climbed the beanstalk and went to the giant’s castle. For the third time, Jack met the giant’s wife and asked for some food. Once again, the giant’s wife gave him bread and milk. But while Jack was eating, the giant came home. “Fee-fi-fo-fum, I smell the blood of an Englishman. Be he alive, or be he dead, I’ll grind his bones to make my bread!” cried the giant. “Don’t be silly! There is no boy in here!” said his wife.

The giant had a magical harp that could play beautiful songs. While the giant slept, Jack took the harp and was about to leave. Suddenly, the magic harp cried, “Help master! A boy is stealing me!” The giant woke up and saw Jack with the harp. Furious, he ran after Jack. But Jack was too fast for him. He ran down the beanstalk and reached home. The giant followed him down. Jack quickly ran inside his house and fetched an axe. He began to chop the beanstalk. The giant fell and died.

Jack and his mother were now very rich and they lived happily ever after.

Phần dịch tiếng Việt

Ngày xửa ngày xưa, có một cậu bé tên là Jack. Cậu sống với mẹ ở một ngôi nhà nhỏ trong làng. Gia đình Jack rất nghèo, tài sản duy nhất họ có là một con bò, mà nó đã già đến mức chẳng cho sữa được nữa. Một ngày kia, mẹ của Jack quyết định sẽ bán con bò đi. Mẹ bảo Jack mang con bò ra chợ phiên bán, cố gắng bán được giá tốt.

Trên đường đi ra chợ phiên, Jack gặp một ông già bí ẩn.Ông già nói:

– Ta sẽ đổi con bò của cháu lấy hạt đậu này.

– Sao cháu lại phải đổi cả con bò để lấy hạt đậu nhỏ xíu này?

– Đây không phải là hạt đậu thường đâu, mà là hạt đậu thần đó. Cháu hãy trồng nó vào tối nay và sáng mai nó sẽ mọc cao đến tận trời xanh.

– Điều này sao mà xảy ra được. Sao cháu phải tin lời ông chứ?

– Nếu lời ông nói mà không thành sự thật thì sáng mai ông sẽ trả lại con bò cho cháu

Jack không tin lời ông lão lạ mặt lắm, nhưng mà cậu cũng chả thấy mất gì nếu trao đổi với ông cả. Nên cậu đồng ý đổi con bò lấy hạt đậu thần như ông lão nói. Khi về nhà, mẹ cậu hỏi:

– Jack, con bán con bò được bao nhiêu tiền vậy?

– Con đã đổi nó lấy hạt đậu thần này mẹ ạ

– Sao vậy? Con dám đổi tài sản duy nhất nhà ta có lấy cái hạt đậu vô tích sự này sao? Sao con lại làm thế?

Mẹ của Jack rất giận dữ, bà mắng Jack và ném hạt đậu qua cửa sổ, hạt đậu rơi xuống khu vườn. Bà phạt Jack không được ăn tối hôm đó. Sáng hôm sau, khi Jack thức dậy và nhìn qua cửa sổ, cậu nhìn thấy một điều chưa bao giờ thấy trong đời. Một cái cây lạ lùng vươn lên cao tít đến tận trời xanh.

– Ôi, cái gì vậy?

– Có phải cây đậu thần của mình không?

Jack mừng rỡ trèo ra khỏi cửa sổ và nhảy sang cây đậu thần. “Ôi, lời của ông già đã trở thành sự thật rồi. Cây đã mọc đến tận trời cao rồi. Mình phải lên xem mới được”.

Jack tò mò leo lên trên cây. Leo mãi, leo mãi, cậu leo không ngừng. Leo đến hết ngày thì Jack đến tận trời. Trước mắt Jack lúc này là một khung cảnh kỳ diệu như trong mơ. giữa những đám mây trắng xóa là một tòa lâu đài nguy nga lộng lẫy. Jack mệt vì leo quá lâu, và cũng đói bụng vì cậu chưa ăn gì từ tối hôm qua, cậu gõ mạnh vào cánh cửa

– Xin chào, có ai ở đây không? Cháu có thể xin một ít đồ ăn được không ạ?

– Bỗng nhiên, cánh cửa lâu đài tự mở ra.

Jack ngạc nhiên, nhưng rồi cậu đánh bạo bước vào trong. Cảnh tượng bên trong rất lộng lẫy, đồ đạc sáng bóng. Jack đi đến căn bếp, cậu thấy có một lát bánh mì và một ít sữa. Cậu đói quá nên cầm lát bánh mì lên định ăn, thì cậu thấy có những tiếng động mạnh và cả tòa lâu đài rung lắc như trong cơn động đất vậy. Jack sợ hãi nấp dưới gầm bàn. Có một người khổng lồ dữ tợn bước vào phòng, trong tay ông ta có một túi vàng to. Hóa ra đây chính là lâu đài của người khổng lồ độc ác.

Người khổng lồ khịt mũi đánh hơi ầm ĩ. Fee, Fi, Fo, Fum, ta ngửi thấy có mùi người lạ. Hắn nhìn quanh tìm kiếm nhưng không thấy Jack vì chú quá bé và đang trốn dưới gầm bàn. Hắn tự nhủ “có lẽ đấy chỉ là mùi thịt gà tây mình ăn tối qua thôi”. Hắn ngáp dài mệt mỏi và quyết định đi ngủ. Người khổng lồ đặt túi vàng lên bàn rồi bỏ đi. Khi hắn ta ra khỏi phòng, Jack liền chui ra khỏi chỗ nấp và leo lên trên bàn. “Ôi, túi vàng mới to làm sao, mình sẽ giàu đây”.

Jack lấy túi vàng và nhảy khỏi cái bàn. Chú rón rén đi qua căn phòng, ra khỏi lâu đài của gã khổng lồ, và hết sức mang túi vàng đến chỗ cây đậu thần. Chú leo xuống cây đậu và mang túi vàng về cho mẹ. Chú kể với mẹ về chuyện cây đậu thần, về tòa lâu đài của gã khổng lồ và đưa mẹ xem túi vàng đã lấy được.

Vài hôm sau, Jack lại leo lên cây đậu thần để lên trên trời, quay lại chỗ tòa lâu đài hôm trước. Khi chú đang khám phá tòa lâu đài thì lại nghe thấy những bước chân rầm rầm của gã khổng lồ. Chú không kịp chạy đến nấp dưới gầm bàn, nên vội chui vào nấp trong tủ.Người khổng lồ mang một ổ gà mái ra trước cái tủ.

– Gà ơi, đẻ trứng vàng cho ta đi nào! Người khổng lồ nói. Úm ba la, trứng vàng nở ra.

Con gà kêu lên quang quác rồi mau mắn đẻ một quả trứng bằng vàng ròng. Người khổng lồ nhặt lấy quả trứng và đi ra khỏi phòng. Jack nhanh chóng ra khỏi chỗ nấp, chú lấy con gà và mang ra khỏi phòng, cố chạy thật nhanh trước khi người khổng lồ phát hiện ra. Jack mang con gà về nhà cho mẹ:

– Mẹ xem này, con gà này đẻ ra những quả trứng vàng thật đấy.

Chú bắt chước người khổng lồ nói “Gà ơi, đẻ trứng vàng cho ta đi nào! Úm ba la, trứng vàng nở ra”. Con gà kêu lên quang quác rồi lại đẻ ra một quả trứng bằng vàng ròng.

Mẹ Jack nói “jack, lấy trộm của người khác là không tốt đâu con. Con phải trao đổi một cách công bằng và sống lương thiện”

– Nhưng, mẹ xem, con gà này đẻ ra trứng vàng, mình sẽ không phải làm việc nữa mà vẫn đủ sống

Jack ngày càng trở nên tham lam, mỗi ngày chú lại quay lại tòa lâu đài và lấy trộm thêm nhiều đồ vật của người khổng lồ.

Một ngày kia, khi lẻn vào lâu đài, chú thấy người khổng lồ nói với cái đàn hạc:

– Úm ba la, hãy chơi nhạc cho ta.

Và cây đàn bỗng tự chơi những giai điệu du dương. Tiếng nhạc này làm ta buồn ngủ quá, ta phải đi ngủ thôi. Khi người khổng lồ về phòng ngủ, Jack lại trèo lên bàn và lấy trộm cây đàn hạc

Nhưng không ngờ, khi chú chạm tay vào cây đàn thì tiếng nhạc tự động vang lên. Cây đàn kêu lên: “ông chủ, ông chủ, có ai đang lấy trộm tôi”.

Nghe thấy tiếng cây đàn hạc kêu cứu, người khổng lồ thức dậy và bước ra khỏi phòng. Jack không kịp chạy trốn, cậu bị người khổng lồ bắt gặp với cây đàn trong tay.

– A, sao nhà ngươi dám ăn trộm cây đàn của ta? Chính là ngươi đã ăn trộm túi tiền vàng và con gà thần của ta, có đúng không?

Jack luồn qua chân người khổng lồ và cố sức chạy trốn. Người khổng lồ giận dữ đuổi theo. Jack sợ hãi trượt từ trên cây đậu xuống, cậu thấy tiếng gió rít bên tai mình. người khổng lồ cũng đang tụt xuống ngay sau lưng cậu.

Khi Jack chạm đất, cậu đi tìm ngay chiếc rìu và cố hết sức chặt cây đậu thần. Cây đậu bị đổ và ngã kềnh ra đất. Người khổng lồ bị tuột tay, rơi xuống đất và lăn ra chết.

Và Jack đã nhận được một bài học đích đáng, chú hiểu rằng không được tham lam lấy đồ của người khác, và phải lao động cần cù để có cuộc sống tốt đẹp.

Nguồn: Truyện cổ tích Tổng hợp.

 

Khoá học trực tuyến ELIGHT ONLINE được xây dựng dựa trên lộ trình dành cho người mất gốc. Bạn có thể học mọi lúc mọi nơi hơn 200 bài học, cung cấp kiến thức toàn diện, dễ dàng tiếp thu với phương pháp Gamification.

Khoá học trực tuyến dành cho:

☀ Các bạn mất gốc Tiếng Anh hoặc mới bắt đầu học Tiếng Anh nhưng chưa có lộ trình phù hợp.

☀ Các bạn có quỹ thời gian eo hẹp nhưng vẫn mong muốn giỏi Tiếng Anh.

☀ Các bạn muốn tiết kiệm chi phí học Tiếng Anh nhưng vẫn đạt hiệu quả cao

5 – Truyện cổ tích tiếng Anh – Vua núi vàng

Bản gốc tiếng Anh

The King of the Golden Mountain

There was a certain merchant who had two children, a boy and a girl, they were both young, and could not walk. And two richly-laden ships of his sailed forth to sea with all his property on board, and just as he was expecting to win much money by them, news came that they had gone to the bottom, and now instead of being a rich man he was a poor one, and had nothing left but one field outside the town. In order to drive his misfortune a little out of his thoughts, he went out to this field, and as he was walking to and fro in it, a little black mannikin stood suddenly by his side, and asked why he was so sad, and what he was taking so much to heart.

Then said the merchant, if you could help me I would willingly tell you. Who knows, replied the black dwarf. Perhaps, I can help you. Then the merchant told him that all he possessed had gone to the bottom of the sea, and that he had nothing left but this field. Do not trouble yourself, said the dwarf. If you will promise to give me the first thing that rubs itself against your leg when you are at home again, and to bring it here to this place in twelve years, time, you shall have as much money as you will. The merchant thought, what can that be but my dog, and did not remember his little boy, so he said yes, gave the black man a written and sealed promise, and went home.

When he reached home, his little boy was so delighted that he held himself by a bench, trotted up to him and seized him fast by the legs. The father was shocked, for he remembered his promise, and now knew what he had pledged himself to do, as however, he still found no money in his chest, he thought the dwarf had only been jesting. A month afterwards he went up to the garret, intending to gather together some old tin and to sell it, and saw lying there a great heap of money. Then he was happy again, made purchases, became a greater merchant than before, and felt that God was good to him. In the meantime the boy grew tall, and at the same time bright and clever. But the nearer the twelfth year approached the more anxious grew the merchant, so that his distress might be seen in his face. One day his son asked what ailed him, but the father would not say. The boy, however, persisted so long, that at last he told him that without being aware of what he was doing, he had promised him to a black dwarf, and had received much money for doing so. He said likewise that he had set his hand and seal to this, and that now when twelve years had gone by he would have to give him up.

Then said the son, oh, father, do not be uneasy, all will go well. The black man has no power over me. The son had himself blessed by the priest, and when the time came, father and son went together to the field, and the son made a circle and placed himself inside it with his father. Then came the black dwarf and said to the old man, have you brought with you that which you have promised me. He was silent, but the son asked, what do you want here? Then said the black dwarf, I have to speak with your father, and not with you. The son replied, you have betrayed and misled my father, give back the writing. No, said the black dwarf, I will not give up my rights. They spoke together for a long time after this, but at last they agreed that the son, as he did not belong to the enemy of mankind, nor yet to his father, should seat himself in a small boat, which should lie on water which was flowing away from them, and that the father should push it off with his own foot, and then the son should remain given up to the water. So he took leave of his father, placed himself in a little boat, and the father had to push it off with his own foot. The boat capsized so that the keel was uppermost and the deck under water, and the father believed his son was lost, and went home and mourned for him.

The boat, however, did not sink, but floated quietly away, and the boy sat safely inside it, and it floated thus for a long time, until at last it ran into an unknown shore. Then he landed and saw a beautiful castle before him, and set out to go to it. But when he entered it, he found that it was bewitched. He went through every room, but all were empty until he reached the last, where a snake lay coiled in a ring. The snake, however, was an enchanted maiden, who rejoiced to see him, and said, have you come, oh, my deliverer. I have already waited twelve years for you, this kingdom is bewitched, and you must set it free. How can I do that, he inquired. To-night come twelve black men, covered with chains who will ask what you are doing here, but be silent, give them no answer, and let them do what they will with you, they will torment you, beat you, stab you, let everything pass, only do not speak, at twelve o’clock, they must go away again. On the second night twelve others will come, on the third, four-and-twenty, who will cut off your head, but at twelve o’clock their power will be over, and then if you have endured all, and have not spoken the slightest word, I shall be released. I will come to you, and will have, in a bottle, some of the water of life. I will rub you with that, and then you will come to life again, and be as healthy as before. Then said he, I will gladly set you free. And everything happened just as she had said, the black men could not force a single word from him, and on the third night the snake became a beautiful princess, who came with the water of life and brought him back to life again.

So she threw herself into his arms and kissed him, and there was joy and gladness in the whole castle. After this their marriage was celebrated, and he was king of the golden mountain.

They lived very happily together, and the queen bore a fine boy. Eight years had already gone by, when the king bethought him of his father, his heart was moved, and he wished to visit him. The queen, however, would not let him go away, and said, I know beforehand that it will cause my unhappiness, but he suffered her to have no rest until she consented. At their parting she gave him a wishing-ring, and said, take this ring and put it on your finger, and then you will immediately be transported whither wherever you would be, only you must promise me not to use it in wishing me away from this place and with thy father. That he promised her, put the ring on his finger, and wished himself at home, just outside the town where his father lived. Instantly he found himself there, and made for the town, but when he came to the gate, the sentries would not let him in, because he wore such strange and yet such rich and magnificent clothing. Then he went to a hill where a shepherd was watching his sheep, changed clothes with him, put on his old shepherd’s-coat, and then entered the town without hindrance.

When he came to his father, he made himself known to him, but he did not at all believe that the shepherd was his son, and said he certainly had had a son, but that he was dead long ago, however, as he saw he was a poor, needy shepherd, he would give him something to eat. Then the shepherd said to his parents, I am verily your son. Do you know of no mark on my body by which you could recognize me. Yes, said his mother, our son had a raspberry mark under his right arm. He slipped back his shirt, and they saw the raspberry under his right arm, and no longer doubted that he was their son. Then he told them that he was king of the golden mountain, and a king’s daughter was his wife, and that they had a fine son of seven years old.

Then said the father, that is certainly not true, it is a fine kind of a king who goes about in a ragged shepherd’s-coat. On this the son fell in a passion, and without thinking of his promise, turned his ring round, and wished both his wife and child with him. They were there in a second, but the queen wept, and reproached him, and said that he had broken his word, and had brought misfortune upon her. He said, I have done it thoughtlessly, and not with evil intention, and tried to calm her, and she pretended to believe this, but she had mischief in her mind.

Then he led her out of the town into the field, and showed her the stream where the little boat had been pushed off, and then he said, I am tired, sit down, I will sleep a while on your lap. And he laid his head on her lap, and she picked his lice for a while until he fell asleep. When he was asleep, she first drew the ring from his finger, then she drew away the foot which was under him, leaving only the slipper behind her, and she took her child in her arms, and wished herself back in her own kingdom.

When he awoke, there he lay quite deserted, and his wife and child were gone, and so was the ring from his finger, the slipper only was still there as a token. Home to your parents you cannot return, thought he, they would say that you were a wizard, you must be off, and walk on until you arrive in your own kingdom. So he went away and came at length to a hill by which three giants were standing, disputing with each other because they did not know how to divide their father’s property.

When they saw him passing by, they called to him and said little men had quick wits, and that he was to divide their inheritance for them. The inheritance, however, consisted of a sword, which, if anyone took it in his hand, and said, all heads off but mine, every head would lie on the ground, secondly, of a cloak which made any one who put it on invisible, thirdly, of a pair of boots which could transport the wearer to any place he wished in a moment. He said, give me the three things that I may see if they are still in good condition.

They gave him the cloak, and when he had put it on, he was invisible and changed into a fly. Then he resumed his own form and said, the cloak is a good one, now give me the sword. They said, no, we will not give you that, if you were to say, all heads off but mine, all our heads would be off, and you alone would be left with yours. Nevertheless they gave it to him on the condition that he was only to try it against a tree. This he did, and the sword cut in two the trunk of a tree as if it had been a blade of straw. Then he wanted to have the boots likewise, but they said, no, we will not give them, if you had them on your feet and were to wish yourself at the top of the hill, we should be left down here with nothing. Oh, no, said he, I will not do that. So they gave him the boots as well. And now when he had got all these things, he thought of nothing but his wife and his child, and said as though to himself, oh, if I were but on the golden mountain, and at the same moment he vanished from the sight of the giants, and thus their inheritance was divided.

When he was near his palace, he heard sounds of joy, and fiddles, and flutes, and the people told him that his wife was celebrating her wedding with another. Then he fell into a rage, and said, false woman, she betrayed and deserted me whilst I was asleep. So he put on his cloak, and unseen by all went into the palace. When he entered the dining-hall a great table was spread with delicious food, and the guests were eating and drinking, and laughing, and jesting. She sat on a royal seat in the midst of them in splendid apparel, with a crown on her head.

He placed himself behind her, and no one saw him. When she put a piece of meat on a plate for herself, he took it away and ate it, and when she poured out a glass of wine for herself, he took it away and drank it. She was always helping herself to something, and yet she never got anything, for plate and glass disappeared immediately. Then dismayed and ashamed, she arose and went to her chamber and wept, but he followed her there. She said, has the devil power over me, or did my deliverer never come? Then he struck her in the face, and said, did your deliverer never come. It is he who has you in his power, you traitor. Have I deserved this from you.

Then he made himself visible, went into the hall, and cried, the wedding is at an end, the true king has returned. The kings, princes, and councillors who were assembled there, ridiculed and mocked him, but he did not trouble to answer them, and said, will you go away, or not. On this they tried to seize him and pressed upon him, but he drew his sword and said, all heads off but mine, and all the heads rolled on the ground, and he alone was master, and once more king of the golden mountain.

Phần dịch tiếng Việt

Một người lái buôn có hai con, một gái một trai đều nhỏ, chưa biết đi. Bác trang bị hai chiếc tàu, đầy đủ hàng hóa quý giá, tất cả gia tài, của cải đều ở đó. Bác tưởng lãi to. Không ngờ được tin cả hai tàu bị đắm. Bác đang giàu hóa nghèo, chỉ còn một mảnh đất ở xa thị trấn.

Muốn cho khuây khỏa bác ra đó, đi đi lại lại, bỗng bác thấy bên mình có một người đen nhỏ bé hỏi bác tại sao lại buồn. Bác đáp là bác sẵn lòng cho biết nếu y giúp được bác. Y nói:

– Biết đâu tôi lại chẳng giúp được bác điều gì có lợi.

Bác lái buôn liền kể lại của cải của mình đều bị chìm dưới biển. Chỉ còn lại mảnh đất ấy. Người kia đáp:

– Bác đừng lo. Bác muốn bao nhiêu tiền cũng có, miễn là bác hứa với tôi khi về nhà, cái gì chạm vào chân bác trước tiên thì sau mười hai năm nữa bác phải mang lại đây cho tôi.

Bác lái buôn nghĩ bụng: “Chắc chỉ có con chó của mình”, vì bác không hề nghĩ đến đứa con trai nhỏ. Bác nhận lời, thề với người đen sẽ giữ lời hứa. Rồi bác về nhà.

Đứa con trai thấy bố về mừng quá, lần ghế đi đón bố và nắm lấy chân bố. Bác nghĩ đến lời thề lòng đau như cắt, nhưng bác chẳng thấy tiền đâu, bác yên dạ là người đen đùa bác thôi. Một tháng sau bác lên buồng gác xép lấy ít bát đĩa bằng thiếc đem bán thì thấy bát đĩa biến thành vàng cả rồi. Bác vui lắm. Bác bán đi lấy tiền mua hàng, bác giàu hơn trước nhiều.

Lần lần con bác lớn, trí óc mở mang, nhưng thấy con gần tới tuổi mười hai thì bác lái buôn càng đâm lo, lo hiện ra mặt. Một hôm con hỏi bố tại sao lại có vẻ lo, bố không muốn nói. Con năn nỉ mãi, bố phải thú thật là xưa kia bác đã dại dột thề là năm nó mười hai tuổi sẽ giao nó cho một người đến, đền bù lại số vàng bạc người đó đã cho bác. Đứa con đáp:

– Bố không phải lo. Việc rồi đâu sẽ vào đó, người đen sẽ không có quyền lực gì đối với con đâu.

Nó đến xin một vị linh mục ban phép thánh cho. Đến ngày hẹn, nó đi với bố ra mảnh đất ngoài thị trấn. Tới nơi, nó vẽ một vòng tròn cùng bố đứng vào giữa. Người đen hiện ra bảo bố:

– Bác có mang đến cái bác đã hứa với tôi không.

Bác lái buồn im lặng nhưng đứa con trai hỏi:

– Bác đến đây tìm gì?

Người đen đáp:

– Tao nói với bố mày chứ không nói với mày.

Đứa bé đáp:

– Bác đánh lừa bố tôi. Bác hãy xóa bỏ lời thề trong óc bố tôi đi.

Người đen đáp:

– Không, tao không bỏ quyền lợi của tao.

Họ thảo luận với nhau rất lâu rồi đồng ý với nhau như sau: Đứa con trai sẽ không thuộc vào bố cũng không thuộc vào người kia. Nó sẽ phải ngồi vào một chiếc thuyền ở ven sông, bố sẽ lấy chân đẩy ra giữa dòng để con trôi theo ngọn nước. Đứa con từ biệt bố, ngồi vào thuyền và chính bố đẩy thuyền đi. Thuyền lộn nhào. Người bố tưởng con đã chết liền để tang con.

Nhưng chiếc thuyền không đắm, lơ lửng trôi đến một bến xa lạ rồi đứng lại. Anh thanh niên lên bờ, thấy đằng xa có một tòa lâu đài, liền đi về hướng ấy, anh vào thì thấy lâu đài bị phù phép, anh qua các phòng, phòng nào cũng trống rỗng. Ở phòng cuối cùng, anh

nhìn thấy một con rắn nước. Đó là một cô gái bị phù phép. Cô thấy anh mừng rỡ bảo:

– Anh đến giải thoát em đấy à? Em đợi anh mười hai năm nay rồi. Cả nước này bị phù phép, anh phải giải thoát đi.

Anh hỏi:

– Tôi phải làm gì?

Cô đáp:

– Đêm nay có mười hai người đen mang nặng xiềng xích hỏi anh làm gì ở đây. Anh đừng đáp, kệ cho chúng muốn làm gì anh thì làm. Chúng sẽ hành hạ anh, đánh đập anh, đâm anh. Đến nửa đêm, chúng sẽ phải bỏ đi. Đêm thứ hai, mười hai người khác sẽ đến, đêm thứ ba sẽ có hai mươi bốn người đến chặt đầu anh. Nhưng cứ đến nửa đêm là chúng sẽ mất hết phép thuật. Nếu anh cứ để chúng hành hạ mà không nói nửa lời thì em sẽ được giải thoát. Em sẽ lấy một chai nước hồi sinh bóp cho anh tỉnh lại, anh sẽ sống và lành lặn như trước.

Anh thanh niên đáp:

– Tôi sẵn lòng giải thoát cho cô.

Việc xảy ra đúng như lời cô nói. Bọn người đen không cậy được anh nửa lời. Đến đêm thứ ba, con rắn nước hóa ra nàng công chúa xinh đẹp, lấy nước hồi sinh bóp cho anh tỉnh lại. Cô ôm cổ anh hôn, ở lâu đài mở hội linh đình. Lễ cưới được tổ chức, anh trở thành Vua

Núi Vàng.

Hai vợ chồng cùng nhau sống sung sướng. Hoàng hậu sinh con trai. Tám năm sau, vua nhớ bố tha thiết, muốn gặp lại bố. Hoàng hậu không muốn để vua đi, ngăn lại:

– Em sẽ phải đau khổ, nếu chàng đi.

Nhưng rồi bà cũng phải bằng lòng. Khi vua lên đường, bà trao cho vua một chiếc nhẫn thần và bảo:

– Chàng đeo nhẫn này vào ngón tay, muốn đi đâu tự khắc đến ngay. Nhưng chàng phải hứa cùng em là đừng dùng nhẫn bắt em đến chỗ bố chàng.

Vua hứa rồi đeo nhẫn vào ngón tay, ước gì mình đến được thị trấn bố ở. Vua tới nơi liền, nhưng lính canh thấy vua ăn mặc quần áo tuy lịch sự nhưng kỳ lạ thì không để vua vào thành. Vua liền đến một ngọn đồi đổi quần áo cho một gã chăn chiên, vào thành không bị lôi thôi gì.

Khi vua đến trước mặt bố, xưng tên tuổi. Người bố nói rằng mình quả là có một cậu con trai, nhưng nó đã chết từ lâu. Ông thương hại gã chăn chiên tội nghiệp bố thí cho một bữa ăn. Người chăn chiên liền bảo bố mẹ:

– Chính con là con trai bố mẹ đây mà. Con trai bố mẹ có dấu vết gì trên người khả dĩ nhận được ra không?

Người mẹ nói:

– Có, con trai chúng tôi có một dấu giống như quả dâu ở dưới vai bên phải.

Vua vén tay áo lên thì quả có thấy dấu một quả dâu. Hai ông bà chắc chắn là con trai mình thật. Người thanh niên kể lại mình là Vua Núi Vàng, mình đã lấy một nàng công chúa, hai vợ chồng đã có một đứa con trai lên bảy tuổi rất xinh đẹp. Bố nói:

– Ta không tin một tí nào. Kẻ đứng trước mặt ta ăn mặc quần áo chăn chiên tồi tàn không thể nào là vua được.

Người con trai nghe nói tức lắm, quay chiếc nhẫn ước sao vợ con đến ngay bên mình. Họ đến ngay. Nhưng hoàng hậu khóc lóc, than vãn, trách chồng không giữ lời hứa khiến bà đau khổ. Chàng xin nàng tha lỗi cho mình, nói là mình vô ý hành động, chứ không có định phỉ báng nàng. Nàng làm ra bộ tha lỗi cho chàng, nhưng nhất quyết trả thù.

Một hôm, chàng dắt nàng ra ngoài thị trấn và chỉ cho nàng chỗ con sông mà trước kia chàng đã xuống thuyền trôi theo dòng nước. Hai người cảm thấy mệt nhọc, ngồi xuống. Chàng gối đầu vào lòng nàng, chẳng bao lâu ngủ thiếp đi, nàng tháo nhẫn ở ngón tay chàng ra, để lại chiếc hài ở dưới chân chàng rồi ước được về cùng với con.

Chàng tỉnh dậy, thấy mình bị bỏ rơi. Ở dưới đất có chiếc hài còn chiếc nhẫn đã biến mất. Chàng định trở về với bố mẹ, lại sợ bố mẹ cho mình là tên trí trá. Chàng tìm cách trở về nơi mình trị vì.

Chàng lên đường gặp ba tên khổng lồ đang cãi nhau vì chia gia tài của bố để lại. Chúng thấy chàng, gọi lại nhờ chàng phán xử. Chúng nói là con người nhỏ bé tinh khôn hơn chúng. Gia tài gồm một thanh gươm, một chiếc áo khoác và một đôi giày ủng. Khi người có gươm hô: “Tất cả ngã xuống đất, trừ ta” thì lời ước thành sự thật trong nháy mắt. Ai mặc chiếc áo khoác thì thành vô hình. Ai đi đôi giày ủng thì muốn đi đâu là đến

được đấy. Chàng bảo:

– Hãy đưa cho ta các vật để ta xem, chúng nó còn có đức tính ấy thật không?

Chúng đưa cho chàng chiếc áo khoác. Chàng vừa mặc vào thì đã trở thành vô hình, và biến ra con ruồi. Sau đó chàng lại hiện nguyên hình người và bảo:

– Cái áo khoác tốt đấy, giờ đưa cho ta thanh gươm.

Nhưng bọn chúng từ chối, sợ chàng dùng gươm làm cho chúng rụng đầu. Sau chúng đưa cho chàng miễn là chàng thử gươm vào cây thôi. Chàng nhận lời, chặt một cây sồi to trong khoảnh khắc.

Chàng lại hỏi đôi giày ủng. Nhưng chúng từ chối và bảo nếu chàng muốn lên đồi thì được lên đồi ngay và như vậy chúng bị thiệt. Chàng hứa là sẽ không làm gì, chúng đưa giày cho chàng. Khi nắm được ba bảo bối, chàng chỉ nghĩ đến vợ con, liền lẩm bẩm:

– Ước gì ta ở Núi Vàng.

Chàng liền biến khỏi mắt bọn khổng lồ, và như vậy, gia tài của chúng đã bị chia mất. Chàng tới gần lâu đài của mình, thì nghe thấy tiếng nói đùa vui vẻ, tiếng đàn vĩ cầm và tiếng trống vang rộn. Người ta cho chàng biết là vợ chàng làm lễ cưới lấy một người khác. Chàng nổi giận nói:

– Con khốn khiếp! Nó lừa ta, bỏ ta trong khi ta ngủ.

Chàng liền mặc áo tàng hình rồi vào lâu đài. Chàng vào phòng lớn thì thấy một bàn tiệc lớn hết sức thịnh soạn, khách khứa ăn uống vui vẻ. Vợ chàng ở giữa, ngồi trên ngai vàng, đầu đội mũ miện. Chàng đứng sau nàng mà nàng không thấy. Hễ có thức ăn bỏ vào đĩa nàng là chàng lấy ăn liền. Nàng được tiếp thức ăn, đồ uống luôn luôn mà vẫn không có gì, mọi thứ đều biến mất trong nháy mắt.

Nàng vừa khiếp sợ vừa ngượng ngùng, đứng dậy về buồng khóc nức nở. Chàng vẫn theo nàng. Nàng hỏi:

– Quỷ nó theo gót ta, hay là người giải thoát cho ta ngày trước đã đến chăng?

Chàng tát nàng bảo:

– Người giải thoát người đến chăng? Người ấy ở ngay bên cạnh ngươi đây, đồ phản bội! Nỡ nào ngươi lại đối xử với ta như thế?

Sau đó chàng đến phòng lớn bảo:

– Hội hè đã kết thúc, chính vua đã về đây.

Các vua chúa, hoàng thân, cận thần giễu cợt chàng. Chàng hỏi họ một câu ngắn gọn:

– Bay có ra hay không?

Họ đổ xô đến bắt chàng. Chàng rút gươm hô:

– Tất cả ngã xuống đất trừ đầu ta.

Tức khắc tất cả đều ngã xuống và ngất đi. Chàng trở lại làm chúa tể và lại lên ngôi Vua Núi Vàng.

∠ ĐỌC THÊM Tuyển tập những truyện ngắn tiếng Anh hay và dễ đọc nhất 

∠ ĐỌC THÊM Tổng hợp truyện cổ tích tiếng Anh dễ đọc, dễ hiểu nhất (phần 1)

6 – Truyện cổ tích tiếng Anh – Cô bé bán diêm

Bản gốc tiếng Anh

The Little Match Girl

Most terribly cold it was; it snowed, and was nearly quite dark, and evening– the last evening of the year. In this cold and darkness there went along the street a poor little girl, bareheaded, and with naked feet. When she left home she had slippers on, it is true; but what was the good of that? They were very large slippers, which her mother had hitherto worn; so large were they; and the poor little thing lost them as she scuffled away across the street, because of two carriages that rolled by dreadfully fast.

One slipper was nowhere to be found; the other had been laid hold of by an urchin, and off he ran with it; he thought it would do capitally for a cradle when he some day or other should have children himself. So the little maiden walked on with her tiny naked feet, that were quite red and blue from cold. She carried a quantity of matches in an old apron, and she held a bundle of them in her hand. Nobody had bought anything of her the whole livelong day; no one had given her a single farthing.

She crept along trembling with cold and hunger–a very picture of sorrow, the poor little thing!

The flakes of snow covered her long fair hair, which fell in beautiful curls around her neck; but of that, of course, she never once now thought. From all the windows the candles were gleaming, and it smelt so deliciously of roast goose, for you know it was New Year’s Eve; yes, of that she thought.

In a corner formed by two houses, of which one advanced more than the other, she seated herself down and cowered together. Her little feet she had drawn close up to her, but she grew colder and colder, and to go home she did not venture, for she had not sold any matches and could not bring a farthing of money: from her father she would certainly get blows, and at home it was cold too, for above her she had only the roof, through which the wind whistled, even though the largest cracks were stopped up with straw and rags.

Her little hands were almost numbed with cold. Oh! a match might afford her a world of comfort, if she only dared take a single one out of the bundle, draw it against the wall, and warm her fingers by it. She drew one out. “Rischt!” how it blazed, how it burnt! It was a warm, bright flame, like a candle, as she held her hands over it: it was a wonderful light. It seemed really to the little maiden as though she were sitting before a large iron stove, with burnished brass feet and a brass ornament at top. The fire burned with such blessed influence; it warmed so delightfully. The little girl had already stretched out her feet to warm them too; but–the small flame went out, the stove vanished: she had only the remains of the burnt-out match in her hand.

She rubbed another against the wall: it burned brightly, and where the light fell on the wall, there the wall became transparent like a veil, so that she could see into the room. On the table was spread a snow-white tablecloth; upon it was a splendid porcelain service, and the roast goose was steaming famously with its stuffing of apple and dried plums. And what was still more capital to behold was, the goose hopped down from the dish, reeled about on the floor with knife and fork in its breast, till it came up to the poor little girl; when–the match went out and nothing but the thick, cold, damp wall was left behind. She lighted another match. Now there she was sitting under the most magnificent Christmas tree: it was still larger, and more decorated than the one which she had seen through the glass door in the rich merchant’s house.

Thousands of lights were burning on the green branches, and gaily-colored pictures, such as she had seen in the shop-windows, looked down upon her. The little maiden stretched out her hands towards them when–the match went out. The lights of the Christmas tree rose higher and higher, she saw them now as stars in heaven; one fell down and formed a long trail of fire.

“Someone is just dead!” said the little girl; for her old grandmother, the only person who had loved her, and who was now no more, had told her, that when a star falls, a soul ascends to God.

She drew another match against the wall: it was again light, and in the lustre there stood the old grandmother, so bright and radiant, so mild, and with such an expression of love.

“Grandmother!” cried the little one. “Oh, take me with you! You go away when the match burns out; you vanish like the warm stove, like the delicious roast goose, and like the magnificent Christmas tree!” And she rubbed the whole bundle of matches quickly against the wall, for she wanted to be quite sure of keeping her grandmother near her. And the matches gave such a brilliant light that it was brighter than at noon-day: never formerly had the grandmother been so beautiful and so tall. She took the little maiden, on her arm, and both flew in brightness and in joy so high, so very high, and then above was neither cold, nor hunger, nor anxiety–they were with God.

But in the corner, at the cold hour of dawn, sat the poor girl, with rosy cheeks and with a smiling mouth, leaning against the wall–frozen to death on the last evening of the old year. Stiff and stark sat the child there with her matches, of which one bundle had been burnt. “She wanted to warm herself,” people said. No one had the slightest suspicion of what beautiful things she had seen; no one even dreamed of the splendor in which, with her grandmother she had entered on the joys of a new year.

Phần dịch tiếng Việt

Rét dữ dội. Tuyết rơi. Trời đã tối hẳn. Đêm nay là đêm giao thừa.

Giữa trời đông giá rét, một em gái nhỏ đầu trần, chân đi đất, đang dò dẫm trong đêm tối.

Lúc ra khỏi nhà em có đi giày vải, nhưng giày vải phỏng có tác dụng gì kia chứ !

Giày ấy của mẹ em để lại, rộng quá, em đã liên tiếp làm văng mất cả hai chiếc khi em chạy qua đường, vào lúc hai chiếc xe ngựa đang phóng nước đại.

Chiếc thứ nhất bị xe song mã nghiến, rồi dính theo tuyết vào bánh xe; thế là mất hút. Còn chiếc thứ hai, một thằng bé lượm được, cười sằng sặc, đem tung lên trời. Nó còn nói với em bé rằng nó sẽ giữ chiếc giày để làm nôi cho con chó sau này.

Thế là em phải đi đất, chân em đỏ ửng lên, rồi tím bầm lại vì rét.

Chiếc tạp dề cũ kỹ của em đựng đầy diêm và tay em còn cầm thêm một bao.

Em cố kiếm một nơi có nhiều người qua lại. Nhưng trời rét quá, khách qua đường đều rảo bước rất nhanh, chẳng ai đoái hoài đến lời chào hàng của em.

Suốt ngày em chẳng bán được gì cả và chẳng ai bố thí cho em chút đỉnh. Em bé đáng thương, bụng đói cật rét, vẫn lang thang trên đường. Bông tuyết bám đầy trên mái tóc dài xõa thành từng búp trên lưng em, em cũng không để ý.

Cửa sổ mọi nhà đều sáng rực ánh đèn và trong phố sực nức mùi ngỗng quay. Chả là đêm giao thừa mà ! Em tưởng nhớ lại năm xưa, khi bà nội hiền hậu của em còn sống, em cũng được đón giao thừa ở nhà. Nhưng thần chết đã đến cướp bà em đi mất, gia sản tiêu tán và gia đình em đã phải lìa ngôi nhà xinh xắn có dây trường xuân leo quanh, nơi em đã sống những ngày đầm ấm, để đến chui rúc trong một xó tối tăm, luôn luôn nghe những lời mắc nhiếc, chửi rủa.

Em ngồi nép trong một góc tường, giữa hai ngôi nhà, một cái xây lùi lại một chút.

Em thu đôi chân vào người, nhưng mỗi lúc em càng thấy rét buốt hơn.

Tuy nhiên em không thể nào về nhà nếu không bán được ít bao diêm, hay không ai bố thí cho một đồng xu nào đem về; nhất định là cha em sẽ đánh em.

Vả lại ở nhà cũng rét thế thôi. Cha con em ở trên gác, sát mái nhà và, mặc dầu đã nhét giẻ rách vào các kẽ hở trên vách, gió vẫn thổi rít vào trong nhà. Lúc này đôi bàn tay em đã cứng đờ ra.

Chà ! Giá quẹt một que diêm lên mà sưởi cho đỡ rét một chút nhỉ ? Giá em có thể rút một que diêm ra quẹt vào tường mà hơ ngón tay nhỉ ? Cuối cùng em đánh liều quẹt một que diêm. Diêm bén lửa thật là nhạy. Ngọn lửa lúc đầu xanh lam, dần dần bước đi, trắng ra, rực hồng lên quanh que gỗ, sáng chói trông đến vui mắt.

Em hơ đôi tay trên que diêm sáng rực như than hồng. Chà ! Ánh sáng kỳ diệu làm sao ! Em tưởng chừng như đang ngồi trước một lò sưởi bằng sắt có những hình nổi bằng đồng bóng nhoáng. Trong lò, lửa cháy nom đến vui mắt và tỏa ra hơi nóng dịu dàng.

Thật là dễ chịu ! Đôi bàn tay em hơ trên ngọn lửa; bên tay cầm diêm, cái ngón cái nóng bỏng lên. Chà ! Khi tuyết phủ kín mặt đất, gió bấc thổi vun vút mà được ngồi hàng giờ như thế, trong đêm đông rét buốt, trước một lò sưởi, thì khoái biết bao!

Em vừa duỗi chân ra sưởi thì lửa vụt tắt, lò sưởi biến mất. Em ngồi đó, tay cầm que diêm đã tàn hẳn. Em bần thần cả người và chợt nghĩ ra rằng cha em đã giao cho em đi bán diêm; đêm nay, về nhà thế nào cũng bị cha mắng.

Em quẹt que diêm thứ hai, diêm cháy và sáng rực lên. Bức tường như biến thành một tấm rèm bằng vải màn. Em nhìn thấu tận trong nhà. Bàn ăn đã dọn, khăn trải trắng tinh, trên bàn bày toàn bát đĩa bằng sứ quý giá, và có cả một con ngỗng quay. Nhưng điều kỳ diệu nhất là ngỗng ta nhảy ra khỏi dĩa và mang cả dao ăn, phóng sét, cắm trên lưng, tiến về phía em bé.

Rồi… que diêm vụt tắt; trước mặt em chỉ còn là những bức tường dày đặc và lạnh lẽo.

Thực tế đã thay thế cho mộng mị: chẳng có bàn ăn thịnh soạn nào cả, mà chỉ có phố xá vắng teo, lạnh buốt, tuyết phủ trắng xóa, gió bấc vi vu và mấy người khách qua đường quần áo ấm áp vội vã đi đến những nơi hẹn hò, hoàn toàn lãnh đạm với cảnh nghèo khổ của em bé bán diêm.

Em quẹt que diêm thứ ba. Bỗng em thấy hiện ra một cây thông Noel. Cây này lớn và trang trí lộng lẫy hơn cây mà em đã được thấy năm ngoái qua cửa kính một nhà buôn giàu có. Hàng ngàn ngọn nến sáng rực, lấp lánh trên cành lá xanh tươi và rất nhiều bức tranh màu sắc rực rỡ như những bức bày trong các tủ hàng, hiện ra trước mắt em bé. Em với đôi tay về phía cây… nhưng diêm tắt. Tất cả những ngọn nến bay lên, bay lên mãi rồi biến thành những ngôi sao trên trời.

– Chắc hẳn có ai vừa chết, em bé tự nhủ, vì bà em, người hiền hậu độc nhất đối với em, đã chết từ lâu, trước đây thường nói rằng: “Khi có một vì sao đổi ngôi là có một linh hồn bay lên trời với thượng đế”.

Em quẹt một que diêm nữa vào tường, một ánh sáng xanh tỏa ra xung quanh và em bé nhìn thấy rõ ràng là bà em đang mỉm cười với em.

– Bà ơi ! Em bé reo lên, cho cháu đi với ! Cháu biết rằng diêm tắt thì bà cũng biến đi mất như lò sưởi, ngỗng quay và cây Noel ban nãy, nhưng xin bà đừng bỏ cháu ở nơi này; trước kia, khi bà chưa về với thượng đế chí nhân, bà cháu ta đã từng sung sướng biết bao ! Dạo ấy bà đã từng nhủ cháu rằng nếu cháu ngoan ngoãn cháu sẽ được gặp lại bà; bà ơi! cháu van bà, bà xin với Thượng Đế chí nhân cho cháu về với bà. Chắc Người không từ chối đâu.

Que diêm tắt phụt và ảo ảnh rực sáng trên khuôn mặt em bé cũng biết mất.

Thế là em quẹt tất cả những que diêm còn lại trong bao. Em muốn níu bà em lại ! Diêm nối nhau chiếu sáng như giữa ban ngày. Chưa bao giờ em thấy bà em to lớn và đẹp lão như thế này. Bà cụ cầm lấy tay em, rồi hai bà cháu bay vụt lên cao, cao mãi, chẳng còn đói rét, đau buồn nào đe dọa họ nữa. Họ đã về với Thượng đế.

Sáng hôm sau, tuyết vẫn phủ kín mặt đất, nhưng mặt trời lên, trong sáng, chói chang trên bầu trời xanh nhợt. Mọi người vui vẻ ra khỏi nhà.

Trong buổi sáng lạnh lẽo ấy, ở một xó tường người ta thấy một em gái có đôi má hồng và đôi môi đang mỉm cười. Em đã chết vì giá rét trong đêm giao thừa.

Ngày mồng một đầu năm hiện lên trên tử thi em bé ngồi giữa những bao diêm, trong đó có một bao đã đốt hết nhẵn. Mọi người bảo nhau: “Chắc nó muốn sưởi cho ấm!.” Nhưng chẳng ai biết những cái kỳ diệu em đã trông thấy, nhất là cảnh huy hoàng lúc hai bà cháu bay lên để đón lấy những niềm vui đầu năm.

Nguồn: Truyện cổ tích Tổng hợp

Sách Tiếng Anh Cơ Bản là bộ học liệu độc quyền do Elight xây dựng, cung cấp đầy đủ kiến thức nền tảng tiếng Anh bao gồm Phát Âm, Từ Vựng, Ngữ Pháp và lộ trình ôn luyện bài bản 4 kỹ năng Nghe, Nói, Đọc Viết.

Bộ sách này dành cho:

☀ Học viên cần học vững chắc nền tảng tiếng Anh, phù hợp với mọi lứa tuổi.

☀ Học sinh, sinh viên cần tài liệu, lộ trình tỉ mỉ để ôn thi cuối kỳ, các kì thi quốc gia, TOEIC, B1…

☀ Học viên cần khắc phục điểm yếu về nghe nói, từ vựng, phản xạ giao tiếp Tiếng Anh.

 

Trong bài viết trên Elight đã giới thiệu đến các bạn những chuyện cổ tích hay và nổi tiếng nhất. Elight hy vọng các bạn sẽ luôn yêu tiếng Anh, đam mê tiếng Anh và thành công trên con đường theo đuổi tiếng Anh. 

truyện cổ tích tiếng Anh